Một cái nhin tổng quát 15 năm
1. Địa điểm và tên gọi:
• Từ tháng 09/1994 đến tháng 02/1997 toạ lạc tại 391 Trần Hưng Đạo với tên gọi: trường PTTH Bán công Phan Thiết.
• Từ tháng 03/1997 trở đi, toạ lạc tại khu phố 2 Phú Thuỷ (địa điểm hiện thời) với tên gọi Trường THPT bán công Phan Chu Trinh.
2. Quá trình xây dựng trường mới:
• Ngày 22/12/1995 UBND tỉnh họp, ngày 27/06/1996 quyết định giao đất (QĐ 1298)
• Ngày 29/08/1996, khởi công xây dựng 24 phòng dãy A và 150m tường rào dãy A.
• Năm 1998 xây dựng 16 phòng dãy C. Năm 2001 xây dựng 12 phòng dãy B.
• Năm 2002 làm ½ sân trường, đổ đất sân vận động, xây dựng 250m tường rào dãy C và B, làm nhà xe giáo viên.
• Năm 2002 dựng tượng đài cụ Phan Chu Trinh (12 giờ ngày 10/11/2002 dựng tượng, 7 giờ ngày 16/11/2002 làm Lễ khánh thành - có ông Hồ Dũng Nhật - phó Chủ tịch Tỉnh và Ông Nguyễn Văn Hiến - Giám đốc Sở tham dự).
• Năm 2005, làm ½ sân trường còn lại và xây dựng hệ thống thí nghiệm, thư viện.
• Tháng 03/2008 giải phóng xong mặt bằng phía trước. Ngày 26/03/2008 khởi công xây cổng chính.
• Tháng 05/2009 trồng cây xanh phía trước (cây dầu nước). Tháng 08/2009 làm nhà xe học sinh dãy B.
3. Tình hình đội ngũ:
• Năm đầu tiên (09/1994) có 19 CBGVNV (15 biên chế, 4 hợp đồng) trong đó BGH 2, Giáo viên 14, nhân viên 03.
• Năm thứ 15 (05/2009) có 102 CBGVNV (48 biên chế, 54 hợp đồng), trong đó: BGH 4, giáo viên 89, nhân viên 9. Như vậy trong 15 năm, đội ngũ tăng 5,4 lần.
4. Tình hình khai giảng hàng năm:
• Năm đầu tiên khai giảng 12/09/1994, chậm hơn so với cả nước 1 tuần lễ.
• 14 năm tiếp theo khai giảng đúng với lịch khai giảng toàn quốc
• Có 3 năm phải học ca 3 ban đêm: 1994-1995, 1996-1997, 1998-1999.
5. Quy mô phát triển:
• Năm đầu tiên 622 học sinh / 13 lớp
• Năm thứ 15 là 3139 h/s / 68 lớp. Như vậy quy mô tăng 5,2 lần
• Số học sinh tốt nghiệp ra trường 15 năm là: 11.766 học sinh
6. Danh hiệu thi đua:
• Trường: 15 năm liên tục đạt Trường tiên tiến, trong đó có 6 năm đạt tập thể lao động xuất sắc (1999-2000, 2002-2003, 2005-2006, 2006-2007, 2007-2008, 2008-2009)
• Tập thể tổ:
- Tập thể LĐXS: 6 tổ đã đạt (Văn, Sử địa, Sinh thể, Hoá, HCQT, Giám thị) trong đó đạt nhiều lần nhất là tổ Sử địa, tổ Văn, tổ Giám thị
- Tập thể LĐTT: 3 tổ đã đạt (Toán, Anh văn, Vật lý) trong đó đạt nhiều nhất là tổ Toán.
• Cá nhân đạt CSTĐ cấp tỉnh: 5 người: thầy Đình, thầy Trung, cô Bích Hằng, cô Bích Hường, thầy Hỗ)
• Cá nhân được Bộ tặng Bằng khen: 16 người: thầy Đình, thầy Hỗ, thầy Trung, cô Hằng, cô Hường, cô Oanh, cô Minh, thầy Phú, cô Lập, cô Hải Bình, cô Trần Yến, cô Thảo (KT), thầy Phúc, thầy Tùng, cô Ngọc Hà, thầy Thân.
7. Tổng số học sinh thi học sinh giỏi đạt giải và số sáng kiến kinh nghiệm được công nhận:
• Số học sinh đạt giải cấp tỉnh: 41, đạt giải toàn quốc 01.
• Tổng số SKKN được Ngành công nhận: 57 (14 loại B, 43 loại C)
8. Những nét truyền thống mang đặc trưng riêng:
8.1 Xây dựng được một hệ thống quản lý nề nếp khá căn cơ, bài bản
8.2 Xây dựng được khối đoàn kết, tinh thần làm việc tận tuỵ
8.3 Xác định được bước đi cụ thể của từng giai đoạn, biết tập trung nguồn lực để dứt điểm.
8.4 Biết phát huy nội lực kết hợp với việc tranh thủ sự quan tâm của lãnh đạo các cấp để tạo ra những bước chuyển biến có ý nghĩa quyết định.
8.5 Biết gắn kết giữa các tổ chức đoàn thể, tạo thành sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng.
Tóm lược những mốc lịch sử về trường 15 năm đầu: 1994 - 2009
Trường được thành lập năm 1994 theo QĐ 768 ngày 09/08/1994 của UBND tỉnh. Lúc ấy Trường mang tên “Trường PTTH Bán công Phan Thiết” toạ lạc tại 391 Trần Hưng Đạo, (cạnh nhà thờ Chính toà) với tổng diện tích khoảng 1200m2. Đây là cơ sở của Trường tiển học được xây dựng trước năm 1975 gồm 7 phòng học với diện tích khoảng 32m2/phòng. Khi tiếp nhận cơ sở này, chỉ có phòng không vườn trống, không bàn ghế, không điện. Do mặt bằng thấp nên mùa mưa toàn bộ ngập tràn trong biển nước. Đội ngũ VBGVNV chỉ có 19 người. Học sinh cũng chỉ có 622 em/13 lớp, trong đó có 4 lớp 11 là học sinh hệ B từ trường Phan Bội Châu chuyển qua. Thực lòng mà nói, lúc ấy tâm lý chung của thầy và trò là hoang mang, buồn chán.
Thế rồi như một quy luật tất yếu của sự sinh tồn, toàn thể thầy và trò đã gồng mình lên để vượt qua gian khó, để tự khẳng định mình với tinh thần “khó khăn khắc phục, lấy bất biến ứng vạn biến”. Cứ như thế, từng ngày, từng tháng, kiên trì, nhẫn nại, bình tĩnh vượt qua và tồn tại, để đến ngày 26/02/1997 bắt đầu có ngôi trường mới với 12 phòng học, tại địa điểm bây giờ.
Từ khi có ngôi trường mới, mặc dù còn vô vàn khó khăn, thiếu thốn, nhưng nó là nguồn năng lượng tạo động lực mới để trường vươn vai, lớn dậy, đi lên ; để kết thúc giai đoạn 10 năm, trường đã có đủ thế và lực sánh vai với các trường công lập, với một thành tích khá ấn tượng: 10 năm liên tục đạt danh hiệu “Trường tiên tiến”, trong đó có 2 năm “Trường tiên tiến xuất sắc”.
Kết thúc năm học 2003-2004, Trường tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm và phát hành tập kỷ yếu “Trường THPT Bán công Phan Chu Trinh 10 năm hình thành và phát triển”. Lễ kỷ niệm diễn ra long trọng đúng vào ngày 20/11/2004. Đến dự lễ kỷ niệm có Ông Hồ Dũng Nhật - Uỷ viên Ban thường vụ Tỉnh uỷ - Phó Chủ tịch UBND tỉnh; Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban tổ chức Tỉnh uỷ; Ông Nguyễn Văn Hiến - Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo; Ban Giám hiệu trường THPT Bán công Trần Hưng Đạo, Cam Ranh, Khánh Hoà; đại diện một số Sở, ban, ngành, trường học trong tỉnh và tất cả CBGVNV, học sinh trường Bán công Phan Chu Trinh. Trước Khi tổ chức lễ, trường đã tổ chức phần hội 2 ngày, với những hoạt động sôi nổi như : Hội diễn văn nghệ, Hội thi cắm hoa, gian hàng trưng bày triển lãm, thi đấu các môn TDTT, toạ đàm ..v..v. Có thể nói, đó là một lễ hội khá ấn tượng.
5 năm tiếp bước: 2004-2009
Vui mừng, phấn khởi, tự hào với 10 năm từng trải, 10 năm liên tục phát triển, trường lại tiếp tục cuộc hành trình.
Năm học thứ 11 (2004-2005)
Năm học này, số học sinh tăng vọt lên đến 3603 em/ 73 lớp; số giáo viên được tăng thêm 10 người, nâng tổng số CBGVNV lên 89 người (Biên chế 46). Năm học này khai giảng đúng vào ngày 5/9, trong không khí tưng bừng náo nhiệt.
Ngày 15/10, trường tiến hành hội nghị xây dựng kế hoạch năm học. Sau hội nghị này, một loạt kế hoạch được triển khai, phong trào thi đua dấy lên liên tục, các cuộc thi tìm hiểu, các cuộc vận động được thầy và trò hăng hái tham gia.
Bởi thế, kết thúc năm học, trường tiếp tục gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp: Đại hội TDTT lần thứ 7, xếp thứ 3 toàn đoàn; Hội thi tiếng hát hay PTTH lần thứ 11 lại đứng thứ 3 toàn tỉnh; Hội thi tuổi trẻ học đường nói không với ma tuý đạt giải C toàn đoàn và 4 giải cá nhân; Thực hiện ATGT tốt, nên được Ban ATGT tỉnh tặng bằng khen; Thi học sinh giỏi đạt 1 giải 3 cấp tỉnh môn Sử (h/s Phan Văn Tơ - 12B1); Thi tiếng hát hay PTTH toàn quốc có 1 học sinh đạt giải 3 (h/s Trương Thị Bích Tuyền - 10A6, với bài hát “Màu hoa đỏ”); Kết quả thi đua cuối năm: 5 chiến sĩ thi đua cơ sở, 12 giáo viên giỏi cơ sở, 4 thầy cô được nhận Bằng khen của Bộ Giáo dục (thầy Phúc, cô Yến (sử), thầy Tùng, cô Thảo (kế toán), có 2 sáng kiến xếp loại cấp ngành, 1 tổ đạt tập thể LĐXS (Tổ giám thị), 1 tổ đạt tập thể LĐTT (tổ Sử-Địa-CD)
Với kết quả ấy, Trường được Ngành công nhận Trường tiên tiến lần thứ 11 và cũng năm học này, tháng 03/2005 tiến hành xây dựng Khu thí nghiệm, thư viện.
Năm học thứ 12 (2005-2006)
Năm học này tổng số CBGVNV không thay đổi nhưng số học sinh lại tăng kỷ lục, vượt lên đến 3809 em, chia làm 75 lớp. Hội nghị xây dựng KHNH tiến hành vào ngày 08/10/2005 với một câu hỏi lớn đặt ra: làm gì và làm thế nào để nâng cao chất lượng ? Hội nghị đã sôi nổi thảo luận và cuối cùng đã thống nhất một chương trình hành động có tính khả thi cao.
Sau hội nghị, mọi người lại bắt tay vào công việc với một khí thế mới, quyết tâm đạt cho được trường tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh như nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 5 (ngày 18/07/2005) của Chi bộ đề ra.
Với tinh thần ấy, tháng 10/2005 toàn trường tổ chức thi giáo viên dạy giỏi, kết quả có 9 thầy cô đạt danh hiệu “Giáo viên dạy giỏi cấp trường”. Cũng trong tháng 10, tham gia cuộc thi tìm hiểu về pháp luật và gia đình, đạt 2 giải cấp ngành và giải 3 cấp tỉnh (cô Hải Âu). Tháng 12 thi giọng hát hay THPT đạt giải 3 toàn đoàn và 01 giải nhất đơn ca (h/s Bích Tuyền - 11A6). Tháng 1, tham gia Hội khoẻ Phù Đổng cấp tỉnh đạt giải nhì toàn đoàn. Tham gia Hội diễn văn nghệ không chuyên trong CBGVNV ngành giáo dục, đạt giải nhất toàn đoàn ..v.v.. Có thể nói đây là một trong những năm học mà phong trào thi đua vừa có bề rộng lại vừa có chiều sâu.
Chính sự nổ lực và quyết tâm ấy đã đem lại một kết quả đáng phấn khởi: Cuối năm thi tốt nghiệp đạt 89,5%, Trường được Tỉnh công nhận tập thể Lao động xuất sắc, Thành uỷ tặng giấy khen cho Chi bộ 10 năm liên tục đạt cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, Tỉnh uỷ tặng Bằng khen 7 năm liền đạt cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu cấp Tỉnh; UBND Tỉnh công nhận 3 chiến sĩ thi đua cấp tỉnh (thầy Đình, thầy Trung, Cô Bích Hằng) và 2 tổ là tập thể LĐXS (tổ Văn, tổ HCQT); Sở Giáo dục công nhận 3 tổ LĐTT (Sử địa, Sinh thể, Giám thị) và 6 sáng kiến kinh nghiệm. Đây là 1 trong những năm học để lại nhiều ấn tượng.
Năm học thứ 13 (2006-2007)
Năm học này Sở điều động thêm cho trường 03 giáo viên, nhưng số học sinh vẫn đông (3467/72 lớp) và giáo viên vẫn thiếu trầm trọng, tỷ lệ giáo viên đứng lớp chỉ có 1,07 GV/ lớp. Trước tình hình ấy, ngày 07/10/2006 trường tổ chức Hội nghị xây dựng Kế hoạch năm học và thống nhất chủ trương “Phát huy nội lực để tiếp tục đưa trường phát triển đi lên trong thế ổn định”
Để tạo điều kiện nâng cao chất lượng, trường đã đầu tư trang thiết bị 3 phòng thí nghiệm theo hướng hiện đại hoá với tổng kinh phí trên 150 triệu; Ngoài 01 phòng máy vi tính Sở cấp, Trường mua cho các tổ, các đoàn thể 10 dàn máy vi tính và thống nhất chủ trương “tất cả phải soạn giáo án và làm đề bằng máy vi tính”.
Với tinh thần đổi mới, lại có cơ sở vật chất thiết bị, vì thế phong trào ứng dụng công nghệ thông tin, dạy giáo án trình chiếu khá sôi động. Điều đó đã tác động tích cực đến hiệu quả dạy và học cũng như mọi mặt hoạt động của trường.
Kết thúc năm học, trường đạt được kết quả đáng phấn khởi ; Có 3 học sinh thi h/s giỏi đạt giải 3 cấp tỉnh (Võ Thị Thuý Đồng - 12A1 , Nguyễn Thị Ngọc Châu - 12A2 , Lê Hương Giang - 12A7). Thi tốt nghiệp đạt 80,4%; Thực hiện ATGT tốt được Ban ATGT tỉnh tặng Bằng khen.
Với sự cố gắng không mệt mỏi và kết quả đạt được khá toàn diện nên Trường tiếp tục được UBND Tỉnh công nhận “Tập thể Lao động xuất sắc”; 3 tổ: Văn, Sử địa, Giám thị được công nhận TTLĐXS; Sở Giáo dục công nhận 3 tổ tiên tiến (Toán tin, Sinh thể, HCQT), 11 chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và 5 sáng kiến kinh nghiệm. Chi bộ được Tỉnh uỷ công nhận 8 năm liền đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu. cũng trong năm học này, Cô Bích Hằng được Sở bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng (01/01/2007).
Năm học thứ 14 (2007-2008)
Năm học này số học sinh vẫn dừng lại ở mức 72 lớp với 3297 h/sinh; số lượng CBGVNV tăng lên đúng 100 người, trong đó số giáo viên trực tiếp giảng dạy 77 người. Cái khó của năm học này là: sau 13 năm, khuôn viên trường vẫn chưa giải toả xong. Hội nghị XDKHNH ngày 10/10/2007 đã xác định: ngoài việc tìm giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, cần hạ quyết tâm tìm mọi cách để giải phóng mặt bằng, xây xong tường rào, cổng trường.
Bám sát chủ trương ấy, sau hội nghị, một mặt toàn trường tập trung vào phong trào thi đua hai tốt với những việc làm thiết thực, cụ thể như: Thao giảng chuyên đề đổi mới phương pháp, tổ chức hội nghị học tốt và báo cáo điển hình về cách học. Mặt khác, tích cực tham mưu cho Sở Giáo dục và trực tiếp làm việc với các hộ dân ở trong khuôn viên của trường, trực tiếp nhờ Ban đền bù giải toả tỉnh giúp đỡ, thế là ngày 26/03/2008, hai hộ dân cuối cùng đã di dời và trường chính thức xây cổng. Cổng xây xong, đến lượt xây tường rào, lại có hộ dân ở phía sau đập phá, lại phải mời các cơ quan ban ngành họp, cuối cùng mới tạm ổn.
Một niềm vui, có thể nói vui đến 2 lần! Đó là cựu học sinh Mai Vũ Nhật - Một học sinh lớp 12A1, niên khoá 1997-2000, nay đã là Tổng giám đốc Công ty VN 234, trở về trường tặng 2 phòng máy vi tính, trị giá gần 1 tỷ đồng Việt Nam (ngày 24/05/2008).
Với sự nổ lực cố gắng không biết mệt mỏi của cả thầy và trò, kết thúc năm học, Trường đạt được kết quả tốt đẹp: Thi Tốt nghiệp đạt 86,9%, Hội khoẻ Phù Đổng giải nhì toàn đoàn, tham gia thi giải bóng đá nữ thành phố đạt giải nhất; Trường lại được UBND tỉnh công nhận Tập thể lao động xuất sắc, 2 tổ (Văn và Sử địa) cũng được Tỉnh công nhận TTLĐXS; Sở Giáo dục công nhận 2 tập thể tổ đạt Lao động tiên tiến (tổ Hoá, tổ Giám thị), 14 chiến sĩ thi đua cơ sở, 3 sáng kiến kinh nghiệm. Trường được Bộ Giáo dục tặng 01 Bằng khen, Bộ Văn hoá thể thao du lịch tặng 01 Bằng khen; Chi bộ được Tỉnh Uỷ công nhận trong sạch vững mạnh tiêu biểu cấp Tỉnh 9 năm liền (1999-2007). Có thể nói đây là năm học đạt được nhiều kết quả tốt đẹp nhất.
Năm học thứ 15 (2008-2009)
Đây là năm học cuối cùng của loại hình Bán công mà trường mang tên, cũng là năm học với nhiều biến động, suy tư và trăn trở nhất.
Trước hết nói về đội ngũ học sinh đã có sự chững lại về số lượng, tuy vậy vẫn còn đông (3139 h/s/ 68 lớp). Đội ngũ CBGVNV 102 người (tăng 2 người so với năm trước). Cơ sở vật chất khá đầy đủ; khuôn viên rộng, thoáng mát.
Bước vào năm học, thông tin giải thể trường Bán công, chuyển sang Trường tư thục với hình thức cho thuê hoặc bán, bắt đầu lan rộng. Trước tình hình ấy, Chi bộ và lãnh đạo nhà trường đã họp xác định: Nhiệm vụ hàng đầu là phải tập trung ổn định về tư tưởng, triển khai đồng bộ, có hiệu quả các mặt hoạt động, đồng thời tích cực tham mưu cho Sở và Hội phụ huynh, cố gắng thuyết phục lãnh đạo Tỉnh chuyển trường thành trường Công lập.
Qua một quá trình làm tờ trình, kiến nghị, đề xuất ; đặc biệt là cuộc họp của các Sở, ban, ngành do Ông Hồ Dũng Nhật - Phó chủ tịch UBND Tỉnh chủ trì họp tại Trường Phan Chu Trinh với những ý kiến nhiệt thành, tâm huyết, đề nghị chuyển trường thành trường Công lập, thực sự đã có tác dụng lớn. Sau đó Tỉnh đã chỉ đạo cho Sở thành lập một đoàn đi tham quan 6 tỉnh Miền Đông, Tôi vinh dự được đi trong đoàn công tác này. Đi đến đâu cũng nhận được thông tin chuyển sang công lập. Sau chuyến đi này, Sở làm báo cáo cho Tỉnh và ngày 18/05/2009 UBND Tỉnh có quyết định số 1344 chuyển trường Bán công Phan Chu Trinh cùng với Trường Bán công Nguyễn Huệ và Bán công Chu Văn An thành trường Công lập. Quả thật đây là một quyết định đem đến niềm hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà, đặc biệt đối với các thế hệ học sinh và CBGVNV trường Phan Chu Trinh.
Lại nói về kết quả năm học, tuy có sự biến động về tư tưởng song nhờ sự đoàn kết thống nhất cao nên kết thúc năm học, trường tiếp tục đạt được danh hiệu tập thể lao động xuất sắc cấp Tỉnh và được UBND tỉnh tặng Bằng khen; 2 tổ (Văn và Sử địa) được công nhận tập thể LĐXS, trong đó tổ văn được UBND Tỉnh tặng Bằng khen; 5 cán bộ giáo viên được công nhận CSTĐ cấp tỉnh (thầy Đình, thầy Hỗ, thầy Trung, cô Hằng, cô Hường); Học sinh Tô Trần Hà (12A2) thi học sinh giỏi đạt giải cấp 3 Tỉnh; Sở Giáo dục cũng công nhận 3 tập thể tổ đạt tập thể LĐTT (Toán tin, Hoá, Giám thị), 18 chiến sĩ thi đua cơ sở, 3 sáng kiến kinh nghiệm. Đặc biệt sáng kiến “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Ban giám hiệu được Bộ Giáo dục chỉ định báo cáo điển hình tại hội nghị của Bộ ở Chí Linh - Hải Dương do cô Nguyễn Thị Bích Hằng tham dự. Kết thúc năm học, Cựu học sinh Nguyễn Tiến Thanh, tặng 31 suất học bổng, trị giá 15,5 triệu; Ngân hàng Nông nghiệp tặng 4 suất học bổng, trị giá 2 triệu. Tất cả đã góp phần làm cho 01 năm học mở đầu sóng gió nhưng kết thúc có hậu.
Lẽ đời là thế, khi chuyển sang trường Công lập, đội ngũ lại có sự biến động:. 05 thầy cô lớn tuổi, phải nghỉ theo chế độ (thầy Hỗ, cô Minh, Cô Nga, cô Tỵ, thầy Danh), cô Bích Hằng (Phó Hiệu trưởng, phó Bí thư chi bộ) chuyển về Trường Chuyên làm Phó Hiệu trưởng; Cô Viên Phương được Giám đốc Sở bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng, cô Hải Bình được Chi Bộ bầu giữ chức vụ Phó Bí thư, 28 thầy cô từ 11 trường khác chuyển về, thầy Đình được bổ nhiệm lại Hiệu trưởng, thầy Trung được bổ nhiệm lại Phó Hiệu trưởng, 17 tổ trưởng và tổ phó được bổ nhiệm lại, tất cả học sinh khối 11 và 12 được trở thành học sinh trường Công lập. 42 GVNV hợp đồng được xét tuyển vào công chức. Trường bước sang một thời kỳ mới.
TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP CỤ PHAN CHU TRINH (01/10/2013)
Phan Châu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872-1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế
Phan Châu Trinh sinh ngày 09/09/1872[1], người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã , tự là Tử Cán.
Cha ông là Phan Văn Bình, làm chức Quản cơ sơn phòng, sau tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm Chuyển vận sứ đồn A Bá (Tiên Phước) phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là Lê Thị Trung (Chung ?), con gái nhà vọng tộc, thông thạo chữ Hán, ở làng Phú Lâm, huyện Tiên Phước.
Thân mẫu ông mất sớm vào năm ông lên 6 tuổi. Quê nhà bị quân Pháp đốt cháy trong cuộc trấn áp phong trào Cần vương, nên ông phải theo cha, được cha dạy chữ và dạy võ. Sau khi cha mất[2], ông trở về quê sống với anh là Phan Văn Cừ và tiếp tục đi học. Ông nổi tiếng học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang, và Phạm Liệu.
Sự nghiệp
Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường Thừa Thiên. Năm sau (1901), triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng thời gian này, người anh cả mất nên ông về để tang, ở nhà dạy học đến năm Quý Mão (1903) thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.
Vào Nam, ra Bắc, sang Nhật:
Là người có học vấn, lại tiếp xúc với nhiều người có tư tưởng canh tân và đọc được các tân thư[3], năm 1905, ông từ quan, rồi cùng với hai bạn học là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ năm 1904) làm một cuộc Nam du, với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng.
Đến Bình Định, gặp kỳ khảo hạch thường niên của tỉnh, ba ông lẩn vào các khóa sinh. Vào trường thi, Phan Châu Trinh làm một bài thơ, còn hai bạn thì làm chung một bài phú. Cả ba đều ký tên giả là Đào Mộng Giác. Nội dung bài không theo đầu đề, mà chỉ kêu gọi sĩ tử đang đắm đuối trong khoa trường và danh lợi, hãy tỉnh dậy lo giải phóng giống nòi khỏi cảnh lao lung[4].
Các tỉnh quan Nam triều hoảng sợ, đem bài trình cho viên Công sứ Pháp, đồng thời ra lệnh truy tìm tác giả, nhưng ba ông đã rời khỏi Bình Định, tiếp tục đi vào các tỉnh phía Nam Trung Kỳ. Trên đường đi, ba ông lần lượt kết giao với Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và hai con trai của danh sĩ Nguyễn Thông là Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh.
Sau cuộc Nam du, Phan Châu Trinh ra Nghệ-Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội để gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu tiến bộ, rồi lên căn cứ Đề Thám quan sát tình hình, nhưng thấy khó có thể tồn tại lâu dài[5].
Năm 1906, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc Duy Tân của xứ sở này[6].
Năm 1906, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc Duy Tân của xứ sở này[6].
Phát động phong trào Duy Tân:
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Toàn quyền Paul Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.
Sau đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Phương thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, cải cách trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ, mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, kêu gọi cắt tóc ngắn, cắt ngắn móng tay,...
Thời gian này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca, kêu gọi mọi người duy tân theo hướng dân chủ tư sản như vừa lược kể[5].
Hưởng ứng, ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận, nhiều trường học, thư xã, thương hội, hội nghề nghiệp...lần lượt được lập ra.
Tháng 07/1907, Phan Châu Trinh nhận lời mời ra Hà Nội tham gia diễn giảng mỗi tháng 2 kỳ ở Đông Kinh nghĩa thục.
Bị giam lần thứ nhất:
Tháng 03/1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra, và bị nhà cầm quyền Pháp sai quân đi đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều thành viên trong phong trào Duy Tân bị nhà cầm quyền buộc tội là đã khởi xướng nên đều bị bắt[7].
Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Tòa Khâm sứ Huế và Nam triều đều muốn khép ông vào tội chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội, họ buộc lòng phải kết ông án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên” (nghĩa là tội chém nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), rồi đày đi Côn Đảo ngày 04/041908.
Nhờ dư luận trong nước và nhờ có sự vận động của Hội Nhân quyền ngay trên đất Pháp, đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh. Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án cho ông được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc. Ở đây, ông làm nhiều bài thơ về các nhân vật tên tuổi của Nam Kỳ.
Bởi không hoạt động gì được, ông viết thư cho Toàn quyền Đông Dương đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Lôn, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho nữa. Vì vậy, nhân có nghị định ngày 31/10/1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.
Sang Pháp, bị giam lần thứ hai:
Sang Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền Pháp bản điều trần về vụ trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ năm 1908 (thường gọi là Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký).
Sau đó, ông còn lên tiếng tố cáo tình trạng các tù nhân ở Côn Lôn bị đối xử tồi tệ, và nhờ Liên minh cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp can thiệp nhằm giảm án cho các đồng chí của mình. Ông cũng đã tiếp xúc nhiều lần với những nhân vật cao cấp ở Bộ Thuộc địa, với Albert Saurraut (sắp sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương) để đưa ra những dự án cải tổ nền chính trị ở Việt Nam nhưng không có kết quả, vì lúc này thế lực của thực dân hãy còn đang mạnh. Trong khoảng thời gian này, ông viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam.
Ngày 28/07/1914, Áo - Hung tuyên chiến với Serbia, mở màn cho Thế chiến thứ nhất. Sau đó, ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với Pháp. Nhân cơ hội này, nhà cầm quyền thủ đô Paris (Pháp) gọi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, một luật sư, nhà báo người Việt chống thực dân, đi lính, nhưng hai ông phản đối[8] do không phải là công dân Pháp. Mấy tháng sau, chính quyền khép tội hai ông là gián điệp của Đức để bắt giam Phan Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ngục Santé Prison de la Santé kể từ tháng 09/1914.
Do việc Phan Châu Trinh bị bắt giam nên trợ cấp giảng dạy của ông bị cắt, con ông mất học bổng, phải vừa học vừa làm. Cũng trong năm này, vợ ông là bà Lê Thị Tỵ qua đời ở quê nhà ngày 12/05/1914.
Tháng 07/1915, vì không đủ bằng chứng buộc tội, chính quyền Pháp phải trả tự do cho hai ông sau nhiều tháng giam giữ. Sau khi ra tù, Phan Châu Trinh đã soạn tuyển tập thơ Santé thi tập với hơn 200 bài thơ ông sáng tác trong tù.
Ra tù, Phan Châu Trinh học nghề rửa ảnh rồi làm thuê cho các hiệu chụp ảnh để kiếm sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, giá sinh hoạt đắt đỏ, cảnh ngộ của hai cha con rất đỗi cơ cực. Chẳng lâu sau, Phan Châu Dật phải bỏ học về nước vì bị lao ruột và qua đời tại Huế ngày 14/02/1921, được đem về an táng cạnh mộ mẹ tại Tây Lộc (Tiên Phước, Quảng Nam)[9].
Ngày 19/06/1919, Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là "Nguyễn Ái Quốc", và đã gây được tiếng vang.
Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội vua Khải Định 7 điều, quen gọi là Thất Điều Trần hay Thư Thất Điều, khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể. Cũng trong năm này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca mới. Xuyên suốt tác phẩm này vẫn là một đường lối cải cách dân chủ, vẫn là thực trạng tăm tối của xã hội thực dân phong kiến và những thủ đoạn tàn bạo của chính sách thuộc địa ở Việt Nam.
Thấy hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, đã nhiều lần ông yêu cầu chính phủ Pháp cho ông trở về quê hương, nhưng đều không được chấp thuận. Mãi đến năm 1925, khi thấy sức khỏe ông đã suy yếu, nhà cầm quyền Pháp mới cho phép ông về nước. Khoảng thời gian này, ông viết cuốn Đông Dương chính trị luận.
Về nước rồi qua đời:
Ngày 29/05/1925, Phan Châu Trinh cùng nhà cách mạng trẻ Nguyễn An Ninh xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26/06 cùng năm thì về tới Sài Gòn. Sau đó, ông Ninh đưa ông về thẳng khách sạn Chiêu Nam Lầu[10] của cha mình là ông Nguyễn An Khương. Ở đây mấy ngày, thì ông về ở tại nhà riêng của ông Khương ở Mỹ Hòa[11] để tiện việc tiếp đón bạn bè đến thăm và trao đổi công việc, đồng thời cũng để tiện cho ông Nguyễn An Cư (chú của ông Ninh, một lương y nổi tiếng) chăm sóc sức khỏe.
Tuy bị bệnh nhưng Phan Châu Trinh cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài là Ðạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa. Hai bài này đã có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ tại Sài Gòn, trong đó có Tạ Thu Thâu.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24/03/1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn[12].
Một Ủy ban tổ chức lễ quốc táng chí sĩ Phan Châu Trinh gồm nhiều thành viên là các nhân sĩ, trí thức đã được hình thành ngay trong đêm ông qua đời gồm:
Chủ tịch:
• Bùi Quang Chiêu, Kỹ sư canh nông, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
Các ủy viên:
• Nguyễn Văn Thinh, Bác sĩ y khoa.
• Trần Văn Đôn, Bác sĩ y khoa, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
• Lê Quang Liêm, Đốc Phủ sứ.
• Nguyễn Phan Long, Chủ bút La Tribune Indochinoise, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
• Trương Văn Bền, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
• Nguyễn Tấn Được, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
• Võ Công Tồn, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
• Nguyễn Tấn Văn, Hội đồng thành phố Sài Gòn.
• Trương Văn Công, Hội đồng thành phố Chợ Lớn.
• Nguyễn Kim Đính, Chủ nhiệm Đông Pháp thời báo.
• Trần Huy Liệu, Chủ bút Đông Pháp thời báo.
• Nguyễn Huỳnh Điểu, Hội viên Hội đồng Canh Nông Trà Vinh.
• Nguyễn Dư Khánh, tự Khánh Ký, Nhiếp ảnh gia Sài Gòn.
• Huỳnh Đình Điển, nhân sĩ Sài Gòn.
Hơn 6 vạn người dân đã đến Sài Gòn, không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo tham dự, đã đưa linh cữu Phan Châu Trinh đến nghĩa trang của hội Gò Công tương tế lúc 6 giờ sáng ngày 04/04/1926.
“Ngày đi chôn, dân chúng sắp hàng dài đi dọc đường Pellerin, qua Norodom, quẹo Paull Planchy đến Phú Nhuận rồi thẳng lên Tân Sơn Nhất. Hàng chục ngàn người nghiêm trang, tay đeo băng tang xếp hàng đi, có thanh niên của Đảng Jeune Annam giữ gìn trật tự suốt dọc đường. Một đám tang lớn chưa từng có ở Sài Gòn, đám tang thể hiện sự giác ngộ của quần chúng, đám tang là tấm lòng của đồng bào đối với nhà ái quốc suốt đời chỉ nghĩ đến dân”.
- Nguyễn Thị Minh, Nguyễn An Ninh - “Tôi chỉ làm cơn gió thổi”
Bất chấp sự ngăn cản của chính quyền thực dân, phong trào làm lễ truy điệu Phan Châu Trinh được tổ chức rộng rãi ở khắp ba kỳ, trở thành một sự kiện chính trị nổi bật lúc bấy giờ.
Khu mộ của ông hiện ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, tên ông được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố và trường học trong khắp nước Việt Nam.
Chủ trương cách mạng:
Sau khi cáo quan về quê, Phan Châu Trinh dốc lòng vào công việc cứu nước. Mặc dù rất đau xót trước cảnh thực dân Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (tức đánh đuổi Pháp), mà nhiệm vụ cấp bách là phải:
Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ cùng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.
Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế.
Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa...
Cho nên sau khi ông vào Nam ra Bắc, sang Nhật, để trao đổi và tìm hiểu, cuối cùng ông nhất quyết làm cuộc cải cách duy tân cho quốc dân trong nước. Ngoài ra, ông gửi thư cho Toàn quyền Beau ngày 15 tháng 8 năm 1906, chỉ trích chính phủ Pháp không lo mở mang khai hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị. Bức thư đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước.
Đối với đường lối hoạt động cứu nước của người bạn thân là Phan Bội Châu (ông gặp Phan Bội Châu vào khoảng tháng 07/1904 và sau đó trở thành đôi bạn thân thiết), Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc bạn và tổ chức của bạn (Duy Tân hội) đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng bảo hoàng của người bạn này[13].
Tác phẩm:
- Ðầu Pháp chính phủ thư (1906)
- Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907)
- Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm)
- Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và Phan thúc Duyên năm 1910)
- Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)
- Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)
- Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp, 1915)
- Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)
- Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (hồm hơn 7.000 câu thơ lục bát, soạn 1912-1913)
- Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam (1907), phần II, làm khi sang Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền)
- Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925)
- Đông Dương chính trị luận (1925)
- Ngoài ra, ông còn có các bài diễn thuyết về Đạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, một số thơ (không nằm trong Tây Hồ thi tập) và câu đối chữ Hán ông làm từ 1902-1912...
Thương tiếc:
Phan Châu Trinh qua đời, có rất nhiều liễn đối và thơ văn điếu ông. Trong số đó có bài điếu văn của Huỳnh Thúc Kháng, người bạn thân thiết của ông, mang ý nghĩa lịch sử rõ nét nhất về quan điểm chính trị của Phan Châu Trinh. Trích một đoạn:
...Một đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời, nào bị tù đày, ở nước này sang nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây phút này không thể lược thuật lại cho được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà nói sơ: Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do, còn cái phương pháp tiến hành thì tiên sinh thường nói rằng:
- Tình hình trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu muốn cải cách thì cần liên lạc đoàn thể mới được. Tiếc cho người nước mình còn đang mê mộng, đồng chí với tiên sinh chẳng được mấy người . Vì vậy mà tấm lòng bị phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống gì những điều mắt thấy tai nghe dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!
- Thôi, đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày nay hết cuộc. Chúng tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí tiên sinh, làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Thì linh hồn tiên sinh sẽ được yên ổn mà ngậm cười nơi suối vàng.
Một vài nhận xét:
Trích một vài ý kiến (chỉ để tham khảo):
• Nhà sử học Phạm Văn Sơn:
Chủ trương của Phan Châu Trinh là muốn thi hành một chính sách cải lương cho dân tộc Việt Nam. Chính sách này đòi hỏi ba điều căn bản, đó là: "Khai thông dân trí, loại bỏ quan trường mục nát và tôn trọng dân quyền"...Nhưng nhờ vào ai để thi hành chủ trương trên đây? Ông nhờ Pháp (ỷ Pháp cầu tiến bộ). Nhưng có bao giờ giai cấp bị trị lại nhờ được tầng lớp thống trị cải thiện đời sống hay làm cách mạng cho mình?. Người Pháp từ vạn dặm đến đây, đổ bao xương máu vì lợi ích riêng của họ. Sao ta lại có thể đòi hỏi họ giúp ta giàu mạnh, khôn ngoan? Họ cần dân ta ngu hèn, quan lại vong bổn mới có thể khai thác dân ta đến tận xương tủy chứ?...Do đó, ta thấy chủ trương của ông quả là không tưởng...Về sau này, nhờ sống 15 năm trên đất Pháp, ý thức cách mạng của ông đã tiến bộ nhiều qua bài diễn thuyết về đề tài "Quân trị và dân trị" vào đêm 19/11/1925 tại Sài Gòn.
Dù có những nhận định khác nhau về lập trường chính trị Phan Châu Trinh, nhưng không ai không công nhận ông là một người có tư tưởng dân chủ sớm hơn hết ở Việt Nam[14].
• GS. Huỳnh Lý:
Phan Châu Trinh là một con người hoạt động, một chí sĩ yêu nước nồng nhiệt, dũng cảm, bất khuất, có đầu óc tổ chức và đầy sáng kiến, có những chủ trương dứt khoát và mạnh bạo, như chủ trương cần phải lật đổ bộ máy phong kiến chứ không thể dựa vào nó, cần phải nâng trình độ nhân dân lên về mọi mặt: dân quyền, dân sinh, dân chủ, và muốn thế phải làm một cuộc vận động “tự lực khai hóa” rộng lớn...
Tuy nhiên, vào thời điểm lịch sử của ông, khi thế lực của chủ nghĩa thực dân trên toàn cầu còn rất mạnh, việc ông yêu cầu hết chính phủ ở Đông Dương đến chính khách tư sản ở Pháp, thực hiện cải cách chính trị trước sau đều vấp phải trở lực…nên cuối cùng dẫn ông đến thất bại.
Về sáng tác thơ văn, Phan Châu Trinh đã góp phần vào việc thức tỉnh nhân tâm, làm dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi trong ba thập niên đầu thế kỷ 20[15].
• Nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt Nam:
Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ 20.
Đặc biệt hơn nữa là con đường ông chọn là con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Đây là điểm khác biệt chính giữa ông và Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh xem vấn đề dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tin rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ[16].
Gia đình:
Cha: Phan Văn Bình (?-1886), người làng Tây Lộc, Tiên Phước, một võ quan triều Nguyễn.
Mẹ: Lê Thị Trung (hoặc Chung) (?-1878), người làng Phú Lâm, Tiên Phước.
Mẹ: Lê Thị Trung (hoặc Chung) (?-1878), người làng Phú Lâm, Tiên Phước.
Anh chị em: (khuyết)
Vợ: Lê Thị Tỵ (1877-1914), người làng An Sơn, Tiên Phước. Ông bà cưới nhau năm 1896 và có với nhau 3 người con:
Con trai: Phan Châu Dật (1897-1921)
Con gái: Phan Thị Châu Liên (1901-?), tục gọi là cô Đậu, về sau gả cho Đốc học Lê Ấm (1897-1976).
Cháu ngoại: Lê Thị Khoách, Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Lê Thị Lộc, Lê Khâm (tức Phan Tứ), Lê Thị Sương, Lê Thị Chi và Lê Thị Trang
Con gái: Phan Thị Châu Lan (1904-1944), tục gọi là cô Mè, về sau gả cho Họa đồ Nguyễn Đồng Hợi (?-?)
Cháu ngoại: Nguyễn Thị Châu Sa (tức Nguyễn Thị Bình), Nguyễn Đông Hà, Nguyễn Đông Hải, Nguyễn Thị Châu Loan, Nguyễn Đông Hồ và Nguyễn Đông Hào.
Chú thích:
[1] Từ điển văn học (bộ mới) ghi chú: Ngày sinh này có thể không chính xác, vì dựa theo một giấy khai sinh của ông làm lúc sang Pháp.
[2] Theo Nguyễn Quý Đại, trong Phan Châu Trinh và cuộc đời cách mạng, thì ông Phan Văn Bình bị thủ lĩnh Nghĩa hội Quảng Nam là Nguyễn Duy Hiệu sai người hạ sát ngày 15 tháng 6 năm 1886 vì nghi ngờ ông mưu phản.
[3] Trong thời gian làm thừa biện ở Bộ Lễ (Huế), Phan Châu Trinh đã giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ..., được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, các Tân thư giới thiệu tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu; tư tưởng dân quyền của Rousseau, của Montesquieu; phong trào Duy tân ở Nhật Bản và cách mạng ở Pháp, Mỹ... (theo nhóm Đinh Xuân Lâm, sách đã dẫn, tr. 147-148).
[4] Bài thơ của Phan Châu Trinh có nhan đề là Chí thành thông thánh (Lòng chí thành thông đến bậc thánh). Bài phú của hai bạn có tên là Lương ngọc danh sơn, lấy vần "cầu lương ngọc tất danh sơn" (tìm ngọc quí ở nơi núi đẹp có tiếng). Cả hai tác phẩm này, sau đó đã gây tiếng vang không nhỏ.
[5] a b Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1481).
[6] Theo Phạm Văn Sơn, sách đã dẫn, tr. 429.
[7] Thực tế, cuộc chống sưu thuế ở Trung Kỳ (1908) là do dân chúng bần nổ ra tự phát. Tuy phong trào có chịu ảnh hưởng của phong trào Duy Tân về tư tưởng dân quyền và thực trạng của đất nước, thậm chí, có một số thành viên Duy Tân cũng tích cực tham gia như Nguyễn Bá Loan, Lê Khiết... nhưng không phải do Phan Châu Trinh và các thành viên đứng đầu phong trào trực tiếp phát động.
[8] Theo Huỳnh Lý, Thơ văn Phan Châu Trinh, tr.30.
[9] Khi biết tin ông Duật qua đời, Nguyễn Tất Thành, lúc này đã lấy hiệu là Nguyễn Ái Quốc, đã gửi thư chia buồn.
[10] Tại số 49 đường Kinh Lấp, ngay góc đường Carihelli - Chariner, nay nhà số 49 đường Nguyễn Huệ, gần góc đường Nguyễn Thiệp ngày nay.
[11] Nay thuộc xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh
[12] Nay là đường Pasteur.
[13] Phần chủ trương cách mạng, căn cứ theo nhóm Đinh Xuân Lâm, tr. 148-150.
[14] Lược theo Phạm Văn Sơn, sách đã dẫn, tr.433-435.
[15] Theo Huỳnh Lý, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1383.
[16] Nhóm Đinh Xuân Lâm, sách đã dẫn, tr. 152.
Tham khảo:
• Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 5, Tập trung). Tác giả tự xuất bản, 1963.
• Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
• Đinh Xuân Lâm (chủ biên) - Nguyễn Văn Khánh - Nguyễn Đình Lễ, Đại cương cương lịch sử Việt Nam (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
• Nguyễn Q. Thắng - Ngyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
• Huỳnh Lý (chủ biên), Thơ văn Phan Châu Trinh. Nhà xuất bản Văn học, 1983.
• Nguyễn Quý Đại, Phan Châu Trinh và cuộc đời cách mạng.
Sưu Tầm
LỜI NGÕ (01/10/2013)
Chào mừng Quí Phụ Huynh đến với trang Blog của Trường THPT Phan Chu Trinh. Cho dù Quí Phụ Huynh đang hay chuẩn bị cho con em mình theo học, hay chỉ đơn thuần là muốn biết thêm về trường, tôi vẫn tin rằng trang Blog này sẽ mang lại nhiều thông tin bổ ích cho Quí Phụ Huynh.
Chúng tôi trân trọng kính mời quý Phụ Huynh và các em học sinh đến với trường, tìm hiểu thêm về các chương trình giảng dạy mà chúng tôi áp dụng, và chứng kiến sự phát triển vượt bậc của các em trong môi trường học tập và sự nhận thức về con đường học tập có một không hai. Chúng tôi luôn chào đón quý Phụ Huynh và các em học sinh đến với trường để gặp gỡ các em học sinh giỏi và các giáo viên đầy nhiệt huyết.
Ngày 01/10/2013, trang Blog của Trường THPT Phan Chu Trinh chính thức ra mắt, do cô Võ Thị Thanh Bình. Người thiết kế: Nguyễn Thiên Phúc và Tập Thể Lớp 10A16, Niên Khóa 2013-2014 tặng nhân dịp sang năm Kỷ niệm 20 năm thành lập trường (1994-2014). Trang Blog là nơi gặp gỡ và trao đổi thông tin để nhà trường phát triển bền vững.
Thông qua trang tin điện tử này, chúng tôi mong muốn được thông tin về quá trình xây dựng, phát triển và thành tích nhà trường đạt được, về hoạt động của nhà trường nhất là hoạt động dạy và học, cùng với những thông tin về quê hương, đất nước ngày càng phát triển. Khơi dậy niềm tự hào của các thế hệ học trò về giá trị truyền thống của quê hương, đất nước và của nhà trường.
Xin chân thành cám ơn cô Võ Thị Thanh Bình. Người thiết kế: Nguyễn Thiên Phúc và Tập Thể Lớp 10A16, Niên Khóa 2013-2014 đã góp công, góp sức trong quá trình xây dựng và phát triển trang Blog này.
Tự hào với truyền thống vẻ vang của Trường THPT Phan Chu Trinh, các thế hệ cán bộ, giảng viên và sinh viên hôm nay quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược, sứ mạng nhằm viết tiếp những trang lịch sử truyền thống của Trường THPT Phan Chu Trinh.
Thay mặt cho toàn thể cán bộ, giảng viên và sinh viên, tôi xin gửi đến các Thầy Cô, các bạn động nghiệp, những người đã quan tâm đến Trường THPT Phan Chu Trinh lời chúc sức khỏe và thành đạt. Trường THPT Phan Chu Trinh luôn mong nhận được sự hợp tác của Thầy Cô, các bạn đồng nghiệp trong sự nghiệp đào tạo.
Kính chúc quý vị và các bạn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)